Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Chia sẻ cùng bạn về việc công nghệ giám sát: "Made in China" chiếm ưu thế

Thật sự, người tiêu dùng chưa nhìn nhận đúng tầm quan trọng của hệ thống giám sát an ninh. Vì vậy, khi cần đến các giải pháp an ninh, khách hàng thường có sự lựa chọn mang tính ngắn hạn với chi phí đầu tư ban đầu thấp. Đó chính là lý do các thiết bị ứng dụng công nghệ cách đây 20 năm, đặc biệt là những sản phẩm có xuất xứ từ Trung Quốc, đang được tiêu thụ mạnh.
Việt Nam chấp nhận sử dụng các thiết bị an ninh có công nghệ lỗi thời từ 20 năm trước, đặc biệt là những sản phẩm có xuất xứ từ Trung Quốc.  
500 lần, 50 mét và 5%
Công nghệ giám sát thu hút khách tham quan tại triển lãm Secutech 2012 vừa diễn ra
Ông Trần Trọng Vinh, Chủ tịch Hiệp hội Thiết bị An ninh công nghiệp châu Á, chi hội Việt Nam, cho biết, trong khi trên thế giới, việc sử dụng các thiết bị giám sát an ninh đã rất phổ biến thì ở Việt Nam mới sử dụng được 5% nhu cầu.
Chẳng hạn, ở Anh, một người dân Anh bị ghi hình 500 lần mỗi ngày, ở Singapore, cứ 50m thì có một camera. Điều đáng nói là các công nghệ của Việt Nam đang sử dụng là những công nghệ mà các nước tiên tiến sử dụng cách đây 20 năm.
Hiện tại, một loạt các dự án quốc gia như dự án giao thông Bắc - Nam với kinh phí 500 triệu USD, dự án đường cao tốc TP.HCM - Long Thành... đang triển khai sẽ cần một lượng lớn các thiết bị an ninh. Bên cạnh đó, nhu cầu giám sát tại các doanh nghiệp (DN), và nếu tận dụng vào các hộ gia đình thì nhu cầu này sẽ càng phát triển hơn nữa.
Trước thực trạng cũng như nhu cầu sử dụng đó, Hiệp hội Thiết bị An ninh công nghiệp châu Á đã mang triển lãm Secutech đến Việt Nam. Sau khi Secutech 2008 diễn ra, số DN kinh doanh lĩnh vực này phát triển mạnh mẽ. Từ hơn 100 DN trong năm 2008 đã tăng lên 800 DN vào năm 2012.
Bà Sandra Chen, Giám đốc Dự án Messe Frankfurt New Era Business Media, đơn vị tổ chức triển lãm Secutech tại nhiều quốc gia cho biết, kinh tế thế giới khó khăn, DN đang cắt giảm chi phí và việc đầu tư các thiết bị giám sát an ninh tiên tiến là một trong những giải pháp giúp DN hạn chế rủi ro. Điều này giải thích vì sao số lượng DN ứng dụng công nghệ an ninh vào sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam đang tăng cao.
“Made in China”: Lo đủ đường!
Hiện nay, trên thế giới đã chuyển hẳn sang sử dụng hệ thống giám sát thông minh với nhiều tính năng như nhận diện khuôn mặt, phát hiện camera bị tấn công, tích hợp với các hệ thống cảm biến báo động khác, đồng thời hỗ trợ nhiều cách tương tác với người điều hành như email, SMS, FTP qua smart phone...
Tuy công nghệ giám sát đã phát triển mạnh trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, nhu cầu sử dụng mới chỉ dừng lại ở cấp độ truyền thống là ghi hình. Với kinh nghiệm triển khai các giải pháp giám sát an ninh gần 3 năm nay, ông Đặng Thạch Quân, Giám đốc Công ty Công nghe Quang Dũng, đơn vị phân phối sản phẩm thương hiệu Axis, cho biết, cái khó khăn nhất của nhà phân phối và triển khai dự án là khách hàng chuộng sử dụng giải pháp camera analog rẻ tiền.
Thật sự, người tiêu dùng chưa nhìn nhận đúng tầm quan trọng của hệ thống giám sát an ninh. Vì vậy, khi cần đến các giải pháp an ninh, khách hàng thường có sự lựa chọn mang tính ngắn hạn với chi phí đầu tư ban đầu thấp. Đó chính là lý do các thiết bị ứng dụng công nghệ cách đây 20 năm, đặc biệt là những sản phẩm có xuất xứ từ Trung Quốc, đang được tiêu thụ mạnh.
Ông Trần Trọng Vinh cho rằng, nếu chủ các tiệm vàng sử dụng camera giám sát thế hệ mới thì sẽ không xảy ra những vụ việc đáng tiếc vừa qua. Theo phân tích của ông Vinh, các chủ cửa hàng đã không được tư vấn đúng, đặt camera ở những vị trí không đúng...
Chức năng chính của hệ thống an ninh, an toàn là giám sát nhưng ở Việt Nam, đến 99% người dùng sử dụng theo kiểu: gắn để đó và khi sự cố xảy ra mới xem lại.
Nhu cầu đang tăng cao nên các DN trong nước cũng đã manh nha đầu tư sản xuất. Trong nước, hiện đã có Công ty CP Vạn Xuân (Vantech) sản xuất các thiết bị giám sát an ninh. Tuy nhiên, do ngành này đòi hỏi công nghệ cao nên Vantech chỉ sản xuất theo kiểu mua linh kiện về lắp ráp.
“Trước nhu cầu ngày càng tăng cao, sẽ có nhiều DN đầu tư vào lĩnh vực này, nhưng các DN có ý định đầu tư vào ngành này nên chú ý đến xu hướng. Không nên đầu tư sản xuất những công nghệ lỗi thời, rất khó để có thể cạnh tranh với hàng Trung Quốc”, ông Vinh khuyên.

Tìm hiểu về thực trạng: Làng nghề: Bỏ quên "thế mạnh tự nhiên"

Điển hình là các ngành nghề gốm sứ, đồ gỗ, mây tre đan... luôn thu hút một lượng lớn lao động mang tính ổn định cao. Rõ ràng, thay vì đổ hết tiền vào doanh nghiệp bất động sản, ngân hàng, chứng khoán... đang suy thoái, chưa có dấu hiệu phục hồi thì việc “nuôi sống” người dân, cung cấp việc làm, cải thiện đời sống người dân nghèo tại các làng nghề sẽ là biện pháp cho một sự phát triển bền vững trong tương lai.
Sản xuất gốm tại làng gốm Bát Tràng
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang đối mặt với rất nhiều các nút thắt bên trong lẫn bên ngoài đất nước. Về nội tại, Việt Nam đang “sống cùng nợ xấu” khi tỷ lệ nợ xấu lên đến hơn 10%.
Chính phủ phải bỏ lượng ngân sách chiếm 34% trên tổng GDP Việt Nam cho các “gói cứu trợ”, các công ty nợ xấu... đầy tranh cãi mà thực tế chưa mang về hiệu quả trông thấy. Việc lao theo can thiệp vào vấn đề khó khăn của các doanh nghiệp, ngân hàng đôi lúc khiến Nhà nước trở thành “kẻ ôm đồm” chưa cần thiết.
Điều này đi ngược với chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế (bao gồm tái cơ cấu doanh nghiệp, ngân hàng...) bởi muốn tái cấu trúc thì những cá thể phải có đủ “sức khỏe”, thế nên cần chấp nhận luật chơi “đào thải” của nền kinh tế thị trường nếu doanh nghiệp và ngân hàng không còn đủ sức.
Bên cạnh đó, chiến lược phát triển hàng hóa công nghệ cao và lượng chất xám lớn trở nên tệ hại hơn khi Trung Quốc liên tục tung ra hàng hóa giá “siêu rẻ” nhờ các chiêu trò “cắt xén” nguyên vật liệu, công nghệ tiên tiến hơn, nhân công thuê rẻ tiền hơn...
Đó là chưa kể ở các mặt hàng cạnh tranh cùng ngành khi xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn bởi hàng rào kỹ thuật ngày càng được dựng lên nhiều trong bối cảnh châu Âu, Hoa Kỳ... đang đối diện với cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng.
Việt Nam vốn là một nước có rất nhiều “thế mạnh tự nhiên”. Trong bối cảnh hiện nay, thế mạnh tự nhiên ấy, bao gồm các ngành nghề, làng nghề thủ công, tiểu thủ công nghiệp... được xem là giải pháp gỡ các nút thắt của nền kinh tế.
Thứ nhất, các làng nghề tại Việt Nam xuất hiện và tồn tại một cách đa dạng từ lâu đời. Thực tế, có làng nghề truyền thống tồn tại hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm trước với những đặc trưng rất riêng của mình. Thế nên, làng nghề thủ công được xem như những thứ tài sản hết sức quý báu về mặt kinh tế, trên hết là về mặt văn hóa tinh thần của dân tộc. Bên cạnh đó, các nghệ nhân Việt Nam được thế giới đánh giá cao về khả năng sáng tạo, khéo léo và chi tiết.
Một câu chuyện rất thú vị được GS-TS. Naohiro Kurose kể lại về trang phục truyền thống Kimono của người Nhật. Sau thảm họa 2011, việc sản xuất trang phục truyền thống Kimono tạm thời được chuyển qua cho các nghệ nhân tại Ninh Bình. Bất ngờ, chính người Nhật phải thốt lên khi khả năng gia công, chất lượng sản phẩm sản xuất tại đây “chất” hơn tại Nhật. Đây chỉ là một ví dụ nhỏ cho tiềm năng của các làng nghề tại Việt Nam.
Thứ hai, tăng cường phục hồi và phát triển các làng nghề được xem là giải pháp dài hơi để giải quyết việc làm cho một lượng lớn người dân đang thất nghiệp. Nền kinh tế thị trường cùng công cuộc hiện đại hóa luôn đòi hỏi một lực lượng lao động có trình độ cao, đặc biệt về các yếu tố khoa học, công nghệ, tin học...
Tuy nhiên, Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) công bố Báo cáo Phát triển con người (NHDR) thì số năm đi học trung bình của người Việt Nam năm 2011 chỉ là 5,5 năm. Điều này phản ánh một sự trái chiều giữa yêu cầu chung và đáp ứng thực tế về nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Thế nên, theo thống kê của Hội Làng nghề Việt Nam, với khoảng 2.790 làng nghề thủ công lớn nhỏ hiện nay, có khoảng 24% lao động nông thôn được giải quyết việc làm trong tối thiểu 10 tháng mỗi năm.
Điển hình là các ngành nghề gốm sứ, đồ gỗ, mây tre đan... luôn thu hút một lượng lớn lao động mang tính ổn định cao. Rõ ràng, thay vì đổ hết tiền vào doanh nghiệp bất động sản, ngân hàng, chứng khoán... đang suy thoái, chưa có dấu hiệu phục hồi thì việc “nuôi sống” người dân, cung cấp việc làm, cải thiện đời sống người dân nghèo tại các làng nghề sẽ là biện pháp cho một sự phát triển bền vững trong tương lai.
Cuối cùng, phát triển làng nghề sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác, trong đó phải kể đến du lịch và thu hút đầu tư nước ngoài. Chính sự độc đáo “khó tìm” của các sản phẩm sản xuất ở các làng nghề khiến du lịch làng nghề vài năm gần đây trở nên quen thuộc và mang về hiệu quả cho nền kinh tế.
Điển hình, làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm) hiện nay thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước mỗi khi được dịp đến thăm Hà Nội. Theo thống kê của Ban Quản lý chợ gốm sứ Bát Tràng, năm 2009 có 2.353 đoàn với 10.595 lượt khách quốc tế, 10.000 du khách trong nước về tham quan du lịch, ký kết hợp đồng mua gốm sứ tại Bát Tràng.
Rõ ràng, bên cạnh những lợi ích mang tính kinh tế, xã hội... như là biện pháp “cứu nền kinh tế nợ xấu” thì việc phát triển ngành nghề thủ công góp phần quan trọng để “định vị thương hiệu” Việt Nam trên trường quốc tế trong quá trình hội nhập.

Đi tìm lời giải cho câu hỏi: Camry mới hay chiến lược kinh doanh mới?

Tất nhiên, Camry sẽ vẫn phải chịu áp lực mới từ các đối thủ khi nhiều mẫu xe trong phân khúc sedan hạng trung có sự chuyển giao thế hệ trong năm 2012 và sang năm 2013, phân khúc này sẽ có thêm chiếc Mazda6 đời mới. Dù sao thì các chuyên gia nghiên cứu thị trường vẫn nhận định rằng trong thời gian trước mắt, Toyota Camry 2012 sẽ duy trì được tốc độ bán chạy nhất tại khu vực Bắc Mỹ.
Với 982 triệu đồng là người tiêu dùng sở hữu được chiếc Camry đẳng cấp hàng đầu trong dòng xe du lịch hạng trung: phiên bản đặc biệt 2.0E, động cơ 2.0L, hộp số tự động bốn cấp
Nếu như Civic thế hệ mới được nâng cấp để trở lại cuộc đua đến vị trí số 1 trong phân khúc compact sedan (vì đã để rơi lại vào tay đối thủ Corolla Altis đã ba năm) thì Camry mới thể hiện sự điều chỉnh chiến lược nhằm tiếp cận khách hàng một cách khôn ngoan và linh hoạt của Toyota.
Thay đổi đến từ chiến lược khách hàng So với mẫu xe Camry thế hệ mới được giới thiệu lần đầu tiên vào tháng 8/2011 trên thị trường lớn nhất của chiếc xe này là Bắc Mỹ, chiếc Camry mới được giới thiệu tại Việt Nam (cũng như tại khu vực Đông Nam Á) có một số khác biệt khá rõ, mà một trong những điều đáng chú ý nhất là động cơ.
Tại thị trường Bắc Mỹ, thế hệ mới của chiếc xe sedan hạng trung bán chạy nhất này có nhiều sự lựa chọn động cơ hơn so với thế hệ trước đó, bao gồm phiên bản động cơ hoàn toàn mới 2.5L, phiên bản động cơ 3.5L V6 và phiên bản hybrid 2.4L, bốn xilanh. Tại thị trường Việt Nam, Toyota đã quyết định cắt bỏ phiên bản cao cấp nhất là 3.5L, V6, thay vào đó là bản động cơ 2.5L hoàn toàn mới và lại còn có thêm bản động cơ 2.0L không thuộc thế hệ động cơ mới nói trên.
Trước đó, sự có mặt của Camry 3.5Q (thế hệ trước) từng được xem là “làm thay đổi quan niệm thị trường” của Toyota khi mẫu xe này tiếp cận được với phân khúc xe sang cả về trang thiết bị cao cấp và giá bán. Tuy nhiên, trên thực tế, phiên bản 3.5Q không được đánh giá là thành công. Năm 2011, chỉ có 178 chiếc Camry 3.5Q được tiêu thụ tại Việt Nam, trong khi phiên bản 2.4G lại bán được những 2.643 chiếc.
Việc từ bỏ phiên bản cao cấp cho thấy quyết định điều chỉnh chiến lược của Toyota Việt Nam là đưa Camry về đúng phân khúc thị trường vốn có của nó: dòng sedan hạng trung, với thế hệ động cơ mới 2.5L tiết kiệm nhiên liệu hơn.
Bên cạnh đó, việc tung ra phiên bản động cơ 2.0L với hộp số tự động bốn cấp trong hình hài chiếc Camry thế hệ mới giúp Toyota hạ giá bán Camry xuống dưới 1 tỷ đồng để cạnh tranh trực tiếp với Hyundai Sonata 2.0L nhập khẩu, đang được chào bán với giá 959 triệu đồng (mức giá thấp nhất của phân khúc này so với các đối thủ cùng hạng trên thị trường).
Trong thời buổi kinh tế khó khăn, mức tiêu thụ trên thị trường giảm sút, lại có sự xuất hiện của nhiều thương hiệu mới thì sự điều chỉnh này được xem là có tính chiến lược, thể hiện tư duy linh hoạt và khôn ngoan của nhà sản xuất số 1 Nhật Bản.
Với lợi thế về giá và phụ tùng thay thế do được lắp ráp trong nước, xem ra Camry mới khó có đối thủ cạnh tranh trong cùng phân khúc. Honda Việt Nam hiện đang phân phối chiếc Accord nhập khẩu nguyên chiếc với giá 1,435 tỷ đồng (phiên bản 2.4) và 1,780 tỉ đồng (phiên bản 3.5), trong khi Nissan Teana 3.5L nhập khẩu nguyên chiếc có giá tới 2,425 tỉ đồng.
Vẫn là số 1 ở những thị trường lớn
Tại thị trường lớn nhất của Camry hiện nay là Bắc Mỹ, trong vòng 14 năm trở lại đây, Camry luôn là chiếc xe bán chạy nhất ở phân khúc sedan hạng trung phổ thông nhờ những ưu thế trong thiết kế, chất lượng, giá cả và các dịch vụ hậu mãi.
Sau khi trải qua cuộc khủng hoảng kép là phải thu hồi hơn chục triệu chiếc xe tại Mỹ hồi năm 2009, tiếp đó là thảm họa kép động đất - sóng thần tại Nhật Bản và lũ lụt tại Thái Lan năm 2011, Toyota đang cố gắng lấy lại vị trí nhà sản xuất xe hơi số 1 thế giới. Chiếc đòn bẩy giúp tạo đà hồi phục mạnh mẽ cho nhà sản xuất xe hơi Nhật Bản này không gì khác hơn là Camry.
Chỉ tính riêng Camry, trong năm 2010, Toyota đã tiêu thụ được 327.804 chiếc và trong năm 2011 là 308.510 chiếc. Đến nửa đầu năm nay, chỉ tại khu vực Bắc Mỹ, Toyota đã bán được khoảng gần 200 ngàn chiếc Camry thuộc thế hệ thứ 7 (cùng đời với chiếc Camry vừa ra mắt người tiêu dùng tại thị trường Việt Nam).
Camry thế hệ mới tại Việt Nam cao cấp nhất là phiên bản 2.5Q gắn động cơ thế hệ mới cùng hộp số tự động sáu cấp, ghế phía trước và hàng ghế phía sau đều điều khiển bằng điện, có hệ thống rèm cửa sau và hai bên, đầu DVD màn hình cảm ứng, điều hòa ba vùng khí hậu
Trước đó, ngôi vị của Camry từng bị đe dọa bởi sự tăng tốc của “tân binh” Hyundai Sonata, nhưng sự điều chỉnh về thiết kế và chính sách giá của Toyota đối với Camry thế hệ mới (thế hệ thứ 7 tại thị trường Bắc Mỹ) đã mang lại hiệu quả.
Camry mới được các chuyên gia xe hơi thị trường Bắc Mỹ đánh giá là gọn gàng hơn, trẻ trung hơn, nhiều sự lựa chọn động cơ hơn và tương ứng với nhiều sự lựa chọn về giá, thậm chí có phiên bản còn rẻ hơn phiên bản Hyundai Sonata tương đương.
Những thay đổi như vậy nhằm mục đích mở rộng phân khúc khách hàng của Camry tới các đối tượng khách hàng trẻ. Nhờ vậy, với phiên bản mới tại Bắc Mỹ, Camry gần như tiếp tục làm bá chủ trong phân khúc sedan cỡ trung, bỏ xa các đối thủ Honda Accord, Nissan Altima, Ford Fusion, Chevrolet Malibu, Hyundai Sonata, Kia Optima.
Tất nhiên, Camry sẽ vẫn phải chịu áp lực mới từ các đối thủ khi nhiều mẫu xe trong phân khúc sedan hạng trung có sự chuyển giao thế hệ trong năm 2012 và sang năm 2013, phân khúc này sẽ có thêm chiếc Mazda6 đời mới. Dù sao thì các chuyên gia nghiên cứu thị trường vẫn nhận định rằng trong thời gian trước mắt, Toyota Camry 2012 sẽ duy trì được tốc độ bán chạy nhất tại khu vực Bắc Mỹ.
Ở thị trường châu Á, Camry ít chịu áp lực hơn so với thị trường Bắc Mỹ, nhất là tại khu vực Đông Nam Á và Úc. Camry dường như đã trở thành sự lựa chọn đầu tiên của những gia đình trung lưu tại Thái Lan, Indonesia, Đài Loan, Trung Quốc, Việt Nam.
Tại các nước Đông Á và Đông Nam Á, những chiếc Camry có cấu hình cao (phiên bản Camry 3.5Q của thế hệ trước) còn được xem là xe sang, cao cấp. Lượng tiêu thụ của Camry vẫn luôn dẫn đầu phân khúc mặc dù có thời kỳ bị suy giảm vì chịu ảnh hưởng bởi những thảm họa thiên nhiên.
Tại Thái Lan, chiếc Camry 2012 (thế hệ thứ 5 tại nước này) vừa mới trình làng đã ngay lập tức được giới báo chí ca ngợi là một sản phẩm sẽ làm nên sự đột phá trong phân khúc sedan hạng trung phổ thông nhờ thiết kế trẻ trung, năng động, thể thao hơn, khiến nhiều khách hàng hài lòng.
Toyota Camry 2012 đang có một lợi thế lớn tại thị trường hàng đầu Đông Nam Á vì những đối thủ của nó vẫn chưa đến lúc nâng cấp thế hệ, ví dụ Nissan chưa sẵn sàng đưa ra chiếc Altima, còn Honda phải đợi đến hết năm 2012 mới giới thiệu chiếc Accord mới ra thị trường.
Có cơ may thành công khá chắc chắn ở Bắc Mỹ, Úc và châu Á, nhưng Camry lại không được ưa chuộng tại châu Âu và Nhật Bản. Dường như Toyota không coi trọng phát triển chiếc sedan này tại châu Âu, bằng chứng là họ không sản xuất cũng như bán nó tại đây từ lâu.
Thay cho vị trí của Camry, Toyota sử dụng một chiếc sedan nhỏ hơn, mang tên Avensis. Tuy nhiên, hằng năm Toyota vẫn duy trì một lượng nhỏ (khoảng 25 ngàn chiếc Camry 2012) tại St. Petersburg để cung cấp cho thị trường Nga và các nước lân cận.
Sự yếu thế của Camry và thị trường xe hơi nói chung ở châu Âu một phần cũng do khủng hoảng nợ công và suy thoái kéo dài tại khu vực này. Phân khúc sedan cỡ trung tại đó đã thuộc về những chiếc xe Hàn Quốc như Hyundai Sonata và Kia Optima với giá rẻ và chất lượng ngày càng được cải thiện.
Có vẻ như ngược lại với chiến lược “Một Ford” của hãng xe hơi Mỹ, Toyota chọn chiến lược mềm dẻo và linh hoạt hơn cho các thị trường khác nhau, sẵn sàng hy sinh những thị trường hoặc phiên bản không hiệu quả để tập trung cho những khu vực có khả năng thành công lớn hơn. Chiến lược này liệu có thành công với Camry mới ở Việt Nam hay không, có lẽ chỉ cần chờ vài tháng là thấy được kết quả.

Tìm hiểu sự thú vị của "ngoại" và nội cùng chơi chung

Ông Laurent Chapentier, Giám đốc Ford Việt Nam, kiêm Chủ tịch VAMA, có lần đã nói trước báo giới, đại khái là VAMA không muốn phân biệt một cách rạch ròi theo kiểu “hai bên chiến tuyến” giữa xe trong nước và xe nhập khẩu. Cái mà các nhà sản xuất và kinh doanh xe hơi muốn là đa dạng hóa thị trường, người tiêu dùng tối đa hóa khả năng lựa chọn của mình, theo sản phẩm và theo túi tiền.
Khi tháng 7/2012 kết thúc, VAMA công bố số lượng xe hơi tiêu thụ, các chỉ số đã bắt đầu tăng, cho dù không nhiều lắm. Lần lượt các tên tuổi như Ford, Toyota, Honda... cho ra mắt những dòng xe chính, những mẫu xe mới hoàn toàn hoặc “làm mới” trong thời gian qua.
Dù thị trường tăng hay giảm và dù muốn hay không thì kế hoạch tung ra các dòng xe mới của các hãng cũng khó lòng dừng lại. Như Ford có kế hoạch trong năm bảy năm ra mắt các dòng xe mới. Cũng có hãng tung ra mẫu xe sau đằng đẵng vài năm không có gì mới, như Civic của Honda. 

Và cũng có hãng như Toyota luôn muốn chứng minh vị thế dẫn đầu thị trường bằng việc liên tục cải tiến (ít hoặc nhiều) các dòng xe, từ sản xuất trong nước đến nhập khẩu.

Trong lúc này, các thương hiệu xe nhập khẩu như Porsche, Audi, BMW, Subaru, Renault... cũng thường xuyên đưa về Việt Nam các dòng xe mới. Subaru, thông qua Tập đoàn MotorImage, đã giới thiệu một số dòng xe mới đến từ Nhật Bản.
Họ còn mạnh bạo tham gia triển lãm Saigon Autotech 2012 với tư cách đồng tổ chức. Tuy nhiên, dù thương hiệu này bán rất chạy ở thị trường nước ngoài thì tại Việt Nam, Subaru vẫn chưa thể gọi là có nhiều xe trên phố.

Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam, lượng xe hơi nhập khẩu về Việt Nam trong nhiều tháng qua không tăng. Từ tháng 4/2012 đến nay, lượng xe về Việt Nam nằm khoảng 2.000 chiếc với giá trị dao động từ 45-55 triệu USD.
Trên thực tế, lượng xe hơi nhập khẩu đã giảm từ năm 2011, liên quan đến quy định nhập khẩu xe hơi nguyên chiếc. Sự sụt giảm đó đến nay vẫn còn, dù không thể giảm hơn nữa.
Ước tính, tổng kim ngạch nhập khẩu xe nguyên chiếc qua 8 tháng chỉ vào khoảng 18.000 chiếc với kim ngạch gần 390 triệu USD. Cũng theo số liệu này, lượng xe nhập khẩu so với cùng kỳ năm ngoái giảm hơn 56%. So ra, xe nhập khẩu trong thời gian qua đã ít mà còn không nhiều xe sang.

Đó là tình hình thị trường của những tháng qua, không ai dám khẳng định thị trường từ nay đến cuối năm sẽ như thế nào khi mùa mua sắm đã đến tại Việt Nam - một thị trường mà người tiêu dùng thường hay dồn tiền để sắm những món đồ nhiều tiền cho mục đích “năm hết Tết đến”.

Ông Laurent Chapentier, Giám đốc Ford Việt Nam, kiêm Chủ tịch VAMA, có lần đã nói trước báo giới, đại khái là VAMA không muốn phân biệt một cách rạch ròi theo kiểu “hai bên chiến tuyến” giữa xe trong nước và xe nhập khẩu. Cái mà các nhà sản xuất và kinh doanh xe hơi muốn là đa dạng hóa thị trường, người tiêu dùng tối đa hóa khả năng lựa chọn của mình, theo sản phẩm và theo túi tiền.

Nói không ngoa, thông qua Vietnam Motor Show 2012, xem ra sự “đoàn kết” để “chia miếng bánh thị phần” đang được các hãng tính đến. Tuy nhiên, sự đa dạng cho một triển lãm quy mô cũng được tính đến và “góp gió” để hâm nóng thị trường là điều mà các nhà sản xuất, kinh doanh cần nhất trong lúc này.
Các hãng chờ đợi có sự đột phá về doanh số, trong khi đó, người tiêu dùng chờ đợi những mẫu xe mới cũng như những động thái mang tính kích cầu từ doanh nghiệp khi họ mua một chiếc xe.

Giới thiệu với bạn vấn đề điện thoại thương hiệu Việt: Cái chết không kèn trống

"Dế" thương hiệu Việt vốn đã được "đóng đinh" chủ yếu ở phân khúc giá rẻ. Thế nhưng, nó nhanh chóng phải chịu sức ép cạnh tranh ở phân khúc này từ nhiều hãngđiện thoại có tiếng như Nokia, LG, Samsung.... đặc biệt là với Nokia, khiến miếng bánh thị phần của dế nội nhanh chóng bị co hẹp lại.
Đã từng có thời kỳ “làm mưa, làm gió” trên thị trường thiết bị đầu cuối di động, thế nhưng, giờ, điện thoại thương hiệu Việt đang ở giai đoạn chợ chiều. Nhiều thương hiệu đã tự ra đi “không kèn không trống”.
Lao đao trong bão giá
Năm 2009, 2010, giai đoạn được coi là thời kỳ "đỉnh" của các nhà sản xuất điện thoại di động (ĐTDĐ) thương hiệu Việt.
Thị trường điện thoại di động Việt Nam đã chứng kiến sự ra mắt của hàng loạt các tên tuổi như Q-Mobile của Viễn thông An Bình (ABTel), Hi-mobile của HIPT, Bluefone của CMC... đều phục vụ nhu cầu người dùng ở phân khúc giá tầm trung, rẻ.
Các dòng điện thoại được tung ra thị trường có tới hai sim, hai sóng, được tích hợp nhiều tính năng nhưng giá cả lại rất cạnh tranh so với các thương hiệu ngoại như Nokia, Samsung... Thậm chí, năm 2010, có thương hiệu di động Việt còn được đánh giá là thành công nhất đó là Q-Mobile của Công ty TNHH Viễn Thông An Bình ABTel đã có trong tay trên 20% thị phần thị trường điện thoại tại Việt Nam.
Ở thời điểm đó, Q-Mobile khiến dòng điện thoại của Nokia ở phân khúc giá rẻ cũng bị mất đi thị phần đáng kể. Thậm chí, sang năm 2011, đại diện của thương hiệu Q-Mobile còn đặt mục tiêu vượt hẳn Nokia, nắm trên 50% thị phần điện thoại di động ở Việt Nam.
Thế nhưng, thực tế đã không được như kỳ vọng. Bước sang năm 2011, thị trường điện thoại nội khá trầm lắng và đến thời điểm giữa năm 2012, thị trường ĐTDĐ bão hòa, tình hình kinh tế khó khăn cộng với sự cạnh tranh từ các thương hiệu lớn khiến ĐTDĐ thương hiệu Việt càng lao đao.
"Dế" Việt liệu đã hết thời?
Tháng 8 vừa rồi, Q-Mobile - thương hiệu điện thoại di động "nội" vốn được đánh giá là thành công nhất tại thị trường Việt đã có định hướng phát triển mới.
Cùng với việc tiếp tục duy trì thương hiệu Q-mobile với các sản phẩm điện thoại tính năng thông thường người dùng đã biết tới, ABTel sẽ tập trung vào các sản phẩm điện thoại thông minh Q-smart.
Thế nhưng, ngay khi công bố chính sách mới này, nhiều chuyên gia đã nhận định, "hành trình Q-smart" này xem ra cũng sẽ khá chông gai, chứ không còn dễ dàng như "thời" của Q-mobile trước đây nữa.
Và Q-Mobile chỉ là một ví dụ. Hiện nay, một số điện thoại thương hiệu Việt đã tạm dừng hoặc thu nhỏ qui mô như: Hi-Mobile, BluePhone... Chuỗi bán lẻ điện thoạicó tiếng tại Việt Nam đã đưa ra dự báo, tới cuối năm 2012 chỉ còn một số nhỏthương hiệu điện thoại Việt duy trì hoạt động như Q-Mobile, AVIO...
"Dế" thương hiệu Việt vốn đã được "đóng đinh" chủ yếu ở phân khúc giá rẻ. Thế nhưng, nó nhanh chóng phải chịu sức ép cạnh tranh ở phân khúc này từ nhiều hãngđiện thoại có tiếng như Nokia, LG, Samsung.... đặc biệt là với Nokia, khiến miếng bánh thị phần của dế nội nhanh chóng bị co hẹp lại.
Hãng nghiên cứu thị trường IDC từng cho hay, do phải cạnh tranh gay gắt với các hãng điện thoại nước ngoài, năm 2011, tổng thị phần của các hãng điện thoạithương hiệu Việt chiếm 21%, trong khi con số này năm 2010 là 24%.
Con số chưa đầy đủ về doanh số bán ra của các nhà cung cấp, sản phẩm điện thoại thương hiệuViệt nói chung trung bình giảm từ 30 - 50% trong hơn một năm qua.
Ở thời kỳ cực thịnh của điện thoại thương hiệu Việt, người ta từng nghĩ tới việc phải bảo hộ cho các nhà sản xuất này để làm nên một thương hiệu thực sự của người Việt. Thế nhưng, mọi ý tưởng vẫn chỉ là ý tưởng.
Tới giờ, các dòng điện thoạithương hiệu Việt này vẫn chưa được công nhận là điện thoại mang thương hiệu quốc gia bởi dù được gắn mác "made in Việt Nam" song hàm lượng Việt trong mỗi chiếc điện thoại thương hiệu Việt vẫn còn khiêm tốn.
Các doanh nghiệp sở hữu thương hiệu điện thoại Việt mới chỉ có thể đưa ra được các ý tưởng về hình dáng, mẫu mã cho sản phẩm của mình, còn linh kiện và phụ kiện cũng như nơi sản xuất của những chiếc điện thoại Việt lại đều xuất xứ từ Trung Quốc.
Không còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường điện thoại đang ngày một trở nên bão hoà, một bức tranh vẫn tiếp tục mờ mịt của "dế" nội là điều không tránh khỏi trong thời gian tới.

Tìm hiểu câu chuyện thu mua trực tiếp cà phê: Nestlé vào cuộc

Lý do là Man - Buôn Ma Thuột đã liên kết với nông dân trồng 3.676 ha cà phê sạch 4C với sản lượng khoảng 12.000 tấn/năm, nếu không cho trực tiếp thu mua thì DN này bị thiệt thòi. Đây là trường hợp DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đầu tiên được tỉnh Đắk Lắk đề xuất xin cơ chế riêng để mua cà phê. 
Hiểu lầm...

Ngày 6-7/9, truyền thông trong nước dẫn nguồn Bloomberg thông tin: “Giám đốc Điều hành Nestlé ViệtNam, ông Rashid Qureshi cho biết, Nestle SA (NESN) đang có kế hoạch thúc đẩy thu mua trực tiếp cà phê từ nông dân Việt Nam. Theo đó, Nestlé Vietnam có thể mua 60.000 tấn cà phê mỗi năm trong thời gian 5 năm tới, so với mức 12.000-14.000 tấn hiện nay. Công ty này đã bắt đầu thu mua trực tiếp cà phê từ nông dân Việt Nam vào năm ngoái... Ông Rashid Qureshi cho rằng, rút ngắn chuỗi cung ứng để tiếp cận trực tiếp hơn với người nông dân sẽ giúp tăng thu nhập của họ, cũng như biết rõ nguồn gốc cà phê”. 

Trước thông tin này, nhiều DN kinh doanh cà phê trong nước cho rằng, việc Nestlé thu mua trực tiếp cà phê từ nông dân là trái với quy định pháp luật về mua bán hàng hóa của DN có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Nghị định 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 quy định các DN có vốn đầu tư nước ngoài không được mua trực tiếp từ nông dân và cũng không được lập cơ sở để thu mua hàng xuất khẩu. Và việc trực tiếp thu mua cà phê của Nestlé sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến các DN trong nước.

Tuy nhiên, trao đổi với Báo Doanh Nhân Sài Gòn, ông Vũ Quốc Tuấn, Trưởng phòng Đối ngoại Nestlé Việt Nam, cho biết, Nestlé không mua cà phê trực tiếp từ nông dân mà là “do cách hiểu và cách dịch tiếng Anh của các báo. Chính xác là Nestle tìm cách rút ngắn chuỗi cung ứng để đến gần nông dân hơn”.
Theo ông Tuấn, 60.000 tấn cà phê mà các báo nhắc tới là số cà phê đạt chuẩn 4C trong 5 năm tới, nằm trong dự án “Nescafé Plan” mà công ty đã triển khai từ tháng 8/2010. Theo dự án này, Nestlé hỗ trợ nông dân về đào tạo, giống, công nghệ sau thu hoạch để sản xuất bền vững, cung cấp ổn định cà phê chất lượng cao cho Nestlé.
Hiện nay, Nestlé có hai nhà máy sản xuất cà phê hòa tan ở Việt Nam và như vậy Nestlé không phải là công ty thương mại nên có quyền thu mua cà phê, ít nhất là để phục vụ cho nhà máy.
“Tuy nhiên, chúng tôi chưa bao giờ sử dụng quyền được thu mua trực tiếp từ nông dân và chúng tôi cũng chưa thu mua một ký lô cà phê nào trực tiếp từ nông dân cả. Cho đến nay, Nestle vẫn chỉ thu mua thông qua các DN Việt Nam có đăng ký kinh doanh”, ông Tuấn khẳng định. 

Nhưng lo không lầm

Trong quá khứ đã xảy ra trường hợp UBND tỉnh Đắk Lắk có công văn gửi Bộ Công Thương đề nghị xem xét cho Công ty Man - Buôn Ma Thuột (Công ty Dakman - liên doanh giữa Công ty TNHH một thành viên Xuất nhập khẩu cà phê 2-9 Đắk Lắk và Công ty E.D. & FMan Vietnam Holdings B.V, Anh) được trực tiếp thu mua cà phê của nông dân.
Lý do là Man - Buôn Ma Thuột đã liên kết với nông dân trồng 3.676 ha cà phê sạch 4C với sản lượng khoảng 12.000 tấn/năm, nếu không cho trực tiếp thu mua thì DN này bị thiệt thòi. Đây là trường hợp DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đầu tiên được tỉnh Đắk Lắk đề xuất xin cơ chế riêng để mua cà phê. 

Dù đề xuất này đến nay vẫn chưa được thông qua nhưng đã khiến các DN cà phê trong nước thật sự lo lắng. Bởi 2 năm nay, tuy không được phép mua cà phê trực tiếp từ người dân, nhưng bằng nhiều hình thức khác nhau (như mua cà phê của những nông dân có đăng ký kinh doanh, hoặc thành lập các hợp tác xã), các công ty nước ngoài đã ngày càng mở rộng hệ thống mua cà phê trên thị trường nội địa.
Ông Đỗ Hà Nam, Phó chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam (Vicofa), cho biết, những năm trước, DN xuất khẩu cà phê trong nước chiếm giữ hơn 80% tổng lượng cà phê xuất khẩu, nhưng niên vụ cà phê vừa qua, chỉ còn khoảng 40%.
Hiện nay, 12 DN FDI đã chiếm đến 60% tổng sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam, tương đương 900.000 tấn mỗi năm. Nhiều công ty đã đẩy giá cà phê lên cao nhằm “tranh mua” khi có lợi thế về vốn và lãi suất chỉ khoảng 3,5 đến 4%/năm.
Ưu thế này cộng với tiềm lực tài chính dồi dào sẵn có, DN nước ngoài lấn át DN trong nước là điều dễ hiểu. Thực tế cho thấy, các DN trong nước mất nguồn hàng và rơi vào tình thế không đủ lượng hàng xuất khẩu như trong hợp đồng đã ký. 

Theo các chuyên gia, việc “tranh mua” của các DN nước ngoài trước mắt đã làm cho giá thu mua cà phê trong nước tăng lên, nông dân được hưởng lợi do sản phẩm ngày càng có giá trị.
Tuy nhiên, về lâu về dài, khi các DN nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh, tạo thế độc quyền thu mua sẽ dẫn đến hệ lụy là khi thị trường tốt thì họ vào tranh mua, lúc thị trường xấu thì không ai mua.
Và một khi vùng nguyên liệu đã nằm trong tay các DN nước ngoài, rất có thể chính người nông dân cũng bị những DN này thao túng, ép giá. 

“Một khi các DN nước ngoài khống chế thì Việt Nam không thể thực hiện bất cứ một chiến lược nào của ngành cà phê cả vì lúc đó họ đã kiểm soát từ đầu vào cho đến đầu ra cuối cùng. Bài học này đã thấy rõ từ Thái Lan”, ông Đặng Lê Nguyên Vũ, Chủ tịch Tập đoàn Trung Nguyên, nhận định.

Chia sẻ cùng bạn tin tỷ phú Thái mở siêu thị hàng Thái tại Việt Nam

Mặc dù tên chính thức của chuỗi siêu thị chưa được tiết lộ nhưng dự kiến siêu thị sẽ phân phối 30% sản phẩm Việt Nam và phần còn lại là hàng hoá Thái Lan. Liên doanh này có mục tiêu tạo dựng thương hiệu cho hàng hoá Thái Lan tại khu vực Đông Dương, mở rộng thị trường cho hàng hoá Thái Lan sang Myanmar, Lào, Campuchia và Việt Nam.
Tập đoàn Berli Jucker Plc (BJC) và Mongkol Group dự định sẽ đầu tư khoảng 3 tỷ bath để mở chuỗi siêu thị tại Việt Nam, nhằm đưa hàng hoá Thái Lan thâm nhập vào thị trường tiêu dùng đầy tiềm năng này.
BJC là tập đoàn sản xuất và thương mại hàng đầu của Thái Lan với tuổi đời 130 năm, trong khi Mongkol Group đã kinh doanh bán lẻ tại Việt Nam từ năm 1993. Tham gia vào thị trường bán lẻ, liên doanh Thai Corporation International do hai công ty thành lập sẽ có những siêu thị của chính mình sau khi đã phân phối hàng hoá tại Việt Nam từ hai năm nay.

BJC là tập đoàn do tỷ phú Thái Lan Charoen Sirivadhanabhakdi, người giàu thứ 3 tại Thái Lan, quản lý. Tập đoàn cho biết sẽ dành 3 tỷ bath (2.000 tỷ đồng) để thiết lập mạng lưới kinh doanh phân phối và bán lẻ tại Việt Nam.

Ông Mongkol Banthrarungroj, giám đốc và phó chủ tịch của Thai Corporation International cho biết, chuỗi siêu thị dự tính sẽ mang lại cho Thai Corporation International ít nhất 5 tỷ bath trong vòng 5 năm. Riêng trong năm đầu tiên, nguồn thu ước tính đạt 2,3 tỷ bath.
Mặc dù tên chính thức của chuỗi siêu thị chưa được tiết lộ nhưng dự kiến siêu thị sẽ phân phối 30% sản phẩm Việt Nam và phần còn lại là hàng hoá Thái Lan. Liên doanh này có mục tiêu tạo dựng thương hiệu cho hàng hoá Thái Lan tại khu vực Đông Dương, mở rộng thị trường cho hàng hoá Thái Lan sang Myanmar, Lào, Campuchia và Việt Nam.

Theo ông Mongkol, “một chuỗi siêu thị Thái Lan sẽ là kênh phân phối hàng hoá của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Thái Lan ra thị trường nước ngoài”.

Những cư dân trẻ ở thành thị đang là lực lượng tiêu dùng rất lớn và chiếm tới 60% trong tổng số 90 triệu người dân Việt Nam. Tuy nhiên, để hàng hoá Thái thâm nhập được thị phải có hệ thống phân phối hiệu quả.

Ông cho rằng chất lượng tốt và giá cả hợp lý sẽ là những điểm mạnh để hàng hoá Thái Lan đến với người tiêu dùng Việt Nam. Tại Hội chợ Thương mại Thái Lan vừa qua ở TP.HCM, đã có khoảng 10.000 người đến thăm quan và mua sắm.
Thai Corporation International hiện đang phân phối cá hộp, nước uống tăng lực Red Bull, mì ăn liền Mama, sữa Dutch Milk và giấy Cellox tại Việt Nam.

Đây là lần thứ ba ông trùm Charoen Sirivadhanabhakdi tăng cường kinh doanh bán lẻ sau khi bỏ lỡ vụ thầu đối với chuỗi cửa hàng tiện lợi Family Mart và chuỗi siêu thị lớn Carrefour Hypermarkets trong vài năm vừa qua.
Chủ tịch Aswin Techajaroenvikul BJC cho biết, động thái này cũng phù hợp với chính sách của Charoen trong việc phối kết hợp chính sách thượng nguồn với hạ nguồn để làm cho doanh nghiệp của mình phát triển bền vững hơn.